Đại Ý:
“Phi tín ngưỡng” là không lệ thuộc vào những gì siêu hình, thiêng liêng, huyền bí như khái niệm “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”, “nghiệp phước”, “nhân quả”, v.v.
“Phi tôn giáo” là không bị chi phối bởi tổ chức tăng lữ và do đó không bị ảnh hưởng bởi niềm tin sẵn có của họ.
Quan niệm “Phật giáo phi tín ngưỡng, phi tôn giáo” chú tâm vào cái cốt tủy của Phật pháp là Tứ Diệu Đế và gạt bỏ những chi tiết huyễn hoặc và rườm rà không cần thiết khác.
Thích Ca là một hoàng tử, ngày nọ nhìn thấy thế gian đầy đau khổ nên tâm trí rất ưu tư và bất an. Sau đó ông bỏ nhà ra đi tìm cách giải quyết mối ưu tư và bất an nầy.
Cứu cánh của Thích Ca rất giản dị và rõ ràng: Diệt Khổ.
Sau nhiều năm tu nghiệm, ông tìm ra một chân lý mà theo ông có thể giúp con người để diệt khổ.
Theo Thích Ca muốn diệt Khổ thì phải 1/ nhận ra những loại Khổ trên đời, rồi 2/ nhận ra nguyên nhân của các loại Khổ nầy, rồi 3/ nhận biết rằng con người sự Khổ có thể đoạn diệt được, và 4/ nhận biết cách thức để đoạn diệt sự Khổ.
Diệt Khổ là chân lý mà Thích Ca tìm ra và truyền dạy. Chân lý nầy được gọi là Tứ Diệu Đế như vừa kể trên.
Chấm hết.
Thích Ca không chủ trương và không dạy gì về “Tây Phương Cực Lạc” hay “đầu thai” hay “luân hồi” cả.
Quan niệm “giác ngộ” và “giải thoát” của Thích Ca chỉ để nói về “nhận ra được bản chất của sự Khổ trên đời nầy” và “đoạn diệt được sự Khổ”.
Lúc sinh thời khi đệ tử thắc mắc về “kiếp sau” hay những vấn đề siêu nhiên khác, Thích Ca không trả lời. Theo ông, những điều nầy không cần thiết mà còn làm Phật tử phân tâm trong việc suy nghiệm ra con đường “giác ngộ” và “giải thoát” vừa kể trên.
Thích Ca sống trong một xã hội của Ấn Độ hơn 2000 năm về trước lúc mà đại đa số đang chịu ảnh hưởng mạnh bởi Ấn Độ Giáo cũng như vô số các tôn giáo đầy mê tín dị đoan khác. Dân trí rất thấp. Tất cả những lời dạy của ông đều là truyền miệng.
Mấy trăm năm sau khi ông chết, nghĩa là không dưới khoảng 10 thế hệ truyền miệng với nhau, các đệ tử mới bắt đầu ghi chép lại các lời dạy của ông. Mấy trăm năm là một thời gian quá dài trong hoàn cảnh xã hội thời đó để các lời dạy nầy có thể được ghi chép lại một cách trung thực. Qua thời gian, các lời dạy của Thích Ca càng lúc càng bị ô nhiễm, pha trộn, chế biến, thêm thắc với đủ loại tư tưởng khác cũng như các chi tiết mê tín dị đoạn bởi chính các tăng sư khi soạn thảo kinh sách.
Mức độ ô nhiễm của mê tín dị đoan trong Phật giáo có thể thấy được ở hầu hết mọi tầng lớp trong mọi tông phái.
Chuyện “hoàng hậu nằm mơ thấy voi trắng 9 ngà húc vào người rồi thọ thai” hay “mới sinh ra bước 7 bước, trên mỗi bước hiện ra một hoa sen, tuyên bố ‘thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn’” là một thí dụ điển hình. Câu chuyện nầy được ghi chép trong vô số kinh sách Phật giáo không phải như là một truyền thuyết mà như là lịch sử đã thật sự xảy ra. Hiện tượng tín đồ thần thánh hóa việc giáo chủ của họ được sinh ra (thí dụ như trinh nữ thọ thai hay giao cấu bởi thần tiên) nầy có thể thấy được trong hầu hết mọi tôn giáo khác, nhất là những tôn giáo bị khống chế nặng nề bởi mê tín dị đoan.
Chuyện địa ngục có quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa tra tấn hành hạ những kẻ ác độc khi còn sống ở thế gian là một thí dụ thịnh hành khác trong vô số kinh sách. Sự kiện Mục Kiền Liên hiếu thảo với mẹ được tuyên dương trong kinh sách song song với cuộc hành trình xuống địa ngục cứu mẹ như là một chuyện có thật giúp phần phổ biến và bồi đắp hình ảnh địa ngục kể trên thêm.
Có thể nói rằng chỉ trong vòng khoảng gần một thế kỷ nay mới bắt đầu có ít sách vở được phổ biến viết rằng những câu chuyện tương tự như trên chỉ là truyền thuyết chớ không phải có thật. Một số ít các sư tăng cũng bắt đầu giảng giải rằng những truyền thuyết loại trên chỉ có giá trị tượng trưng chớ không có giá trị lịch sử. Đây là một hiện tượng đáng kể đánh dấu bước ngoặc lớn trong quá trình tiến hóa của Phật giáo. Thời điểm mà hiện tượng nầy xảy ra trùng hợp với thời điểm mà kiến thức khoa học phổ thông và khả năng phân tích suy luận của con người trong xã hội nói chung đã tiến triển đến một mức độ mà một số đủ lớn hành giả không thể nào chấp nhận các chuyện hoang đường trên là có thật nữa.
Lấy chuyện Thích Ca ngồi thiền định dưới gốc Bồ Đề 49 ngày trước khi giác ngộ làm một thí dụ. Hầu hết tất cả kinh sách Phật trong hơn 2000 năm nay đều ghi chép lại việc Ma Vương hiện đến quyến rũ và hăm dọa Thích Ca. Phật tử được giảng dạy và tin rằng chuyện đó đã xảy ra thật. Có 2 trường hợp: 1/ Có thể là Thích Ca đã kể lại cho đệ tử nghe về những cám dỗ và sợ hãi đã xảy ra trong tâm tưởng ông trong 49 ngày ấy bằng một ngôn ngữ rất thực tế; tuy vậy khi các đệ tử soạn thảo kinh sách ra thì tự họ thêu dệt các chi tiết huyền hoặc vào. 2/ Cũng có thể là Thích Ca đã dùng những từ ngữ đầy màu sắc thích hợp thời bấy giờ để làm cho những đệ tử ông có thể hiểu được ông muốn nói gì; và sau đó thì họ lại tin là những câu chuyện màu sắc đó có thật.
Dù gì đi nữa thì các tác giả của vô số kinh sách chính thức của Phật giáo đã ghi chép lại các chuyện trên như là sự thật vì chính họ cũng đã được giảng dạy và tin như vậy. Như đã nói, chỉ đến gần đây thì ý tưởng cho rằng các câu chuyện trên chỉ có tính cách “truyền thuyết” hay “có giá trị tượng trưng” (thay vì là “sự thật”) mới được phổ biến.
Vài Phật tử khi đọc đến đây chắc sẽ nghĩ rằng thời nay chỉ có kẻ dốt nát và mê tín dị đoan mới tin là các truyền thuyết trên có thật, và chắc sẽ không khỏi thầm hãnh diện rằng họ không thuộc vào dạng nầy. Những người đó có thể không biết rằng đa số Phật tử hiện nay vẫn tin, hay ít nhất bán tín bán nghi, rằng các chuyện trên là “có thể có thật”. Mức độ “có thật” nầy cao hay thấp bao nhiêu tùy vào kiến thức phổ thông và khả năng phân tích, lý luận thực tế của từng người.
Những người đó cũng quên rằng có thể ngay chính họ cũng đang tin tưởng và thực hành một số điều mà Thích Ca là giáo chủ của họ khi sinh thời đã cương quyết và kiên trì tránh xa.
Một sự kiện mà Thích Ca đã tránh đề cập đến khi còn sinh tiền là “điều gì sẽ xảy ra sau khi chết”. Tuy vậy, những đệ tử sau nầy của Thích Ca (các Tổ, các cao tăng sáng lập ra phái Đại Thừa hay Thiền Đông Độ chẳng hạn) đã dần dần chế tạo ra một khái niệm thịnh hành nhất trong Phật giáo là cõi “Tây Phương Cực Lạc” để đáp ứng nhu cầu nầy của chính họ và các Phật tử khác.
Đại đa số Phật tử tin rằng nếu họ siêng năng tụng kinh, làm việc phước thì sau khi chết họ sẽ được vào Tây Phương Cực Lạc. Cái cứu cánh và chân lý “đoạn diệt Khổ” của Thích Ca đã bị hoán chuyển ra thành cứu cánh và chân lý “chinh phục sự Chết”. Bản năng sinh tồn tự nhiên của con người từ khai thiên lập địa luôn luôn thu hút người ta tìm đủ mọi cách để tự thuyết phục rằng họ không hoàn toàn bị hũy diệt sau khi chết. Điều nầy có thể thấy trong hầu như tất cả tôn giáo. Phật tử do đó đã thay đổi chủ đích “làm sao để đoạn diệt Khổ ở đời nầy” ra thành “làm sao được vào Tây Phương Cực Lạc sau khi chết” một cách dễ dàng và thoải mái.
(Khái niệm “thiện” liên quan mật thiết với khái niệm “Tây Phương Cực Lạc” trong Phật Giáo, cũng như trong nhiều tôn giáo khác. Làm thiện sẽ được vào Tây Phương Cực Lạc, làm ác sẽ bị trở lại đầu thai trong vòng đau khổ của thế gian; hay tệ hơn nữa sẽ bị đày đọa ở những cõi địa ngục u tối. Khái niệm “thiện” được mọi người đều công nhận là “tốt”, là “nên làm”, là “nên xảy ra”. Khái niệm “Tây Phương Cực Lạc” do đó được vô tình củng cố thêm. Tâm thức của con người có khuynh hướng đồng hóa những sự việc liên quan hay tương tự với nhau. Vì công nhận “thiện” là “tốt”, người ta chấp nhận những lời dạy trong kinh sách về Tây Phương Cực Lạc một cách sẵn sàng hơn.)
Hai khái niệm thịnh hành khác trong Phật Giáo nhưng không nằm trong cứu cánh của Thích Ca là “luân hồi” và “đầu thai”. Nếu chấp nhận là Thích Ca lúc sinh tiền tránh không trả lời các câu hỏi về vấn đề siêu nhiên thì cũng cần chấp nhận rằng ông cũng đã không giảng dạy về quan niệm “luân hồi” và “đầu thai”.
Trong Tứ Diệu Đế không có chi tiết nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, đề cập về các quan niệm nầy.
Khi đã chú trọng vào “làm sao để đến Tây Phương Cực Lạc sau khi chết” hay “kiếp sau sẽ là gì”, người ta dễ bị phân tâm và không còn chú trọng đến “làm sao để đoạn diệt Khổ ở đời nầy” nữa. Đây là lý do chính tại sao Thích Ca không trả lời những câu hỏi về siêu nhiên của đệ tử khi ông còn sống. Lý do thứ hai có thể là vì trả lời xác nhận cũng như trả lời phủ nhận đều không hoàn toàn cả: xác nhận thế giới siêu nhiên là chỉ dựa vào sự mong mỏi và sự sợ hãi của tâm thức khi phản ứng theo bản năng sinh tồn; phủ nhận thế giới siêu nhiên là chỉ dựa trên nhận thức hạn hẹp và thiếu sót của ngũ quan.
Và cũng rất có thể là vì ông không biết câu trả lời vì ngôn ngữ nhân loại không đủ để diễn tả những gì tâm thức và ngũ quan họ cho đến bây giờ chưa thể cảm nhận được. Nhưng điều nầy cho thấy rằng ông ít nhất đã thành thật với chính mình, và với học trò của ông.
Tôi cho rằng ngay cả các quan niệm thịnh hành “nghiệp phước” và “nhân quả” cũng không nằm trong những gì Thích Ca lúc sinh tiền đã dạy. Tuy trong Bát Chánh Đạo có dạy hành giả phải chú trọng vào “chánh nghiệp” nhưng vẫn có thể tranh luận rằng quan niệm “nghiệp” của Thích Ca chỉ có ý nghĩa thực tế chớ không phải huyền bí như Phật tử ngày nay nghĩ. “Thực tế” thí dụ như “ăn ở hiền lành với mọi người thì thường dễ tạo ra một môi trường sống hiền lành trong đó nhiều người cũng sẽ ăn ở hiền lành với những người khác chung quanh, kể cả với mình”. Tuy vậy, quan niệm “nghiệp” thực tế nầy rất có thể cũng đã bị biến đổi với thời gian trở thành siêu nhiên. Và quan niệm “nhân quả” cũng có thể được giải thích tương tự.
Quan niệm “nghiệp phước” và “nhân quả” trong Phật Giáo hiện hành còn được biến cải để bao gồm thêm những nguyên nhân và hệ quả không liên quan đến nhau.
Thí dụ ở trên (“ăn ở hiền lành với người khác sẽ được người khác ăn ở hiền lành với mình”) là một niềm tin mà nguyên nhân và hệ quả có liên quan với nhau. Quan niệm “tụng kinh để được phước” là một niềm tin mà nguyên nhân không có gì liên quan với hệ quả. Tin rằng hành động “tụng kinh” dẫn đến kết quả “được chuyện tốt lành xảy ra cho họ trong tương lai” cũng tương đồng với tin rằng đọc một câu chú hay đốt một lá bùa gì đó sẽ làm thay đổi những gì xảy ra trong cuộc đời của mình hay của một người khác. Và cũng tương đồng với việc tin rằng những câu viết bâng quơ trong quẻ số ngày đầu năm có thể tiên đoán những gì sẽ xảy ra trong suốt 12 tháng sau đó, cũng như vô số các mê tín dị đoan khác xảy ra thường trực trong các chùa chiềng hiện nay. Tương tự, Tứ Diệu Đế không hề nói gì, trực tiếp hay gián tiếp, về các vấn đề nầy.
Tại sao các quan niệm trình bày ở đây được xem là một “Phật giáo phi tín ngưỡng, phi tôn giáo”?
Chữ “tín ngưỡng” ở đây cần hiểu là liên quan đến những gì được coi là thuộc về thế giới siêu hình, thiêng liêng, huyền bí, huyễn hoặc. Không nhìn nhận “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”, “nghiệp phước”, “nhân quả”, v.v. là không có tín ngưỡng.
Khi đã không còn nhìn nhận “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai” và “luân hồi” thì không còn gì để mong đợi trong “kiếp sau” nữa. Sự mong mỏi được đạt Niết Bàn hay đến Tây Phương Cực Lạc là một cái Tham vĩ đại án ngữ trước mắt của hành giả.
Cũng giống như một người đứng áp mặt sát vào một bức tường; bức tường sẽ trở thành quá lớn, chu vi của nó nằm hẳn bên ngoài phạm vi của nhãn quang nên người đó sẽ không còn nhận thấy là có bức tường trước mặt họ nữa. Khi bước lùi lại xa khỏi bức tường đó thì nó không còn lớn đủ để che hết tầm nhìn của hành giả nữa. Khi không còn nhìn nhận “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai” và “Luân Hồi” thì tâm thức của hành giả sẽ chỉ chú trọng vào một mục tiêu duy nhất có thể đạt được trong đời sống hiện tại: Diệt Khổ.
Không còn lo nghĩ về “nhân quả”, “phước nghiệp” thì khi làm điều thiện sẽ không còn vì “để có phước” (và để “việc tốt lành sẽ xảy ra cho mình”, để “kiếp sau được đầu thai thành người sang tốt”, để “khi chết được vào Tây Phương Cực Lạc”, v.v.) nữa. Tất cả những điều trên cũng là một cái Tham lớn. Theo tôi thì đạo đức thật sự là đạo đức xuất phát từ trách nhiệm tự nguyện của tri thức cá nhân. Nếu bị hăm dọa (thí dụ: “làm điều ác sẽ tạo ra nghiệp chướng đời sau”) hay khuyến dụ (thí dụ: “làm việc thiện sẽ gặp việc thiện trả lại”) thì cái gọi là “đạo đức” đó chỉ là những trao đổi với mục tiêu vụ lợi và do đó vô ý nghĩa. Ngoài việc “vô ý nghĩa” ra, quan điểm trên còn tạo ra một ngả rẽ tách rời hành giả ra khỏi con đường Tứ Diệu Đế.
Nếu không còn các yếu tố thiêng liêng, huyền bí trên thì người ta không còn phải lo sợ vô cớ không cần thiết nữa.
Niết Bàn hay Địa Ngục sẽ chỉ là những chuyện kể cho vui tai. Chỉ có đời sống hiện tại là có ý nghĩa, bắt đầu từ lúc nó bắt đầu và chấm dứt bằng sự Chết. Tự nhiên và hiển nhiên. Nếu đã chấp nhận được sự Chết là một điều hiển nhiên thì hành giả sẽ không còn phải mong lo tìm kiếm cách để che đậy cái sự thật đó bằng những ảo ảnh vô tưởng nữa. Tuy không ai có thể chinh phục được sự Chết, nhưng nếu nhìn nhận sự Chết là một phần tự nhiên của đời sống thì rất có thể hành giả sẽ chinh phục, ít ra là phần nào, được sự sợ hãi về cái Chết.
Nếu đã chấp nhận, và hằng nhớ mỗi giây phút trong đời, rằng sự Chết sẽ xảy đến cho bất cứ ai bất cứ lúc nào thì tự nhiên mỗi hơi thở sẽ rất ngọt ngào, mỗi cử động bình thường của cơ thể sẽ là mỗi nỗi sung sướng, mỗi buổi sáng thức dậy sẽ đẹp tuyệt vời, mỗi ngày trôi qua trong đời là một kỳ quan đáng tận hưởng, và mỗi muộn phiền lo lắng trong cuộc sống hàng ngày tự dưng sẽ trở thành không còn đáng để muộn phiền lo lắng nữa. Và đó, theo tôi là một phần lớn của Cực Lạc.
Chữ “tôn giáo” ở đây cần được hiểu là “tôn giáo bị chi phối và điều hành bởi các tổ chức của tăng lữ”.
“Phi tôn giáo” có nghĩa là không bị chi phối bởi tổ chức tăng lữ và do đó không bị ảnh hưởng bởi niềm tin sẵn có của họ. Mỗi tông phái có một lối tu riêng; mỗi tông phái đều cho lối tu của họ là hay nhất, mau lẹ nhất, “thật” nhất. Nhiều chùa, nhiều sư tăng pha trộn lý thuyết và thực hành của nhiều tông phái với nhau, kể cả những mê tín dị đoan thu gặt từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Mỗi “thầy” dạy và muốn đệ tử đi theo con đường của họ, và Phật tử rối mù làm theo như những con nộm vô thức. Nếu không còn bị chi phối bởi kinh sách và lời giảng giải của tổ chức tăng lữ hay Thầy nầy Tổ nọ, thì hành giả sẽ có dịp tự suy ngẫm để may ra có thể nhận thấy tại sao những con đường sẵn có mà họ đang đi theo không dẫn họ đến đâu cả.
Nói tóm lại, quan niệm “Phật giáo phi tín ngưỡng, phi tôn giáo” chú tâm vào cái cốt tủy của Phật pháp là Tứ Diệu Đế và gạt bỏ những chi tiết rườm rà không cần thiết khác. Đối với hành giả mang quan niệm nầy, triết lý Phật giáo tự nhiên giản dị và dễ hiểu hơn nhiều.
Giản dị và dễ hiểu không có nghĩa là dễ thực hành.
Và chắc chắn là không có nghĩa rằng ai cũng nhận thấy.
Cập nhật: 6/2103